Tin hàng hải nội địa và Quốc tế
Dịch vụ du lịch tàu biển vẫn chưa hấp dẫn
![]() |
Năm 2008, dịch vụ du lịch tàu biển Việt Nam đã bị thất thu lớn vì du khách đến nước ta bằng tàu du lịch chỉ đạt con số 157 ngàn, bằng một nửa so với năm 2002 và 65% so với năm 2007. Dự đoán tình hình năm 2009 có thể còn xấu hơn khi hai tháng đầu năm khách tàu biển đến Việt Nam chỉ bằng 64,4% so với cùng kỳ năm ngoái. | ||||||||||||||||||||||||||||||
Được đánh giá là có lợi thế hàng đầu về tự nhiên trong vùng Đông Nam Á (nhiều cảng, bờ biển dài và nhiều bãi biển đẹp, khoảng cách từ cảng đến các danh lam thắng cảnh gần, lại nằm trên tuyến đường Hồng Kông - Singapore), vậy mà ngành này vẫn bị giảm khách nghiêm trọng.
Sân chơi ngày càng thu hẹp
Mười năm trước, Việt Nam bắt đầu được các hãng tàu biển quốc tế biết đến, nhưng lượng du khách hàng năm tăng giảm khá thất thường như trong bảng thống kê dưới đây:
Các công ty du lịch Việt Nam có bộ phận làm dịch vụ khách tàu biển không nhiều, đứng đầu là hai Công ty Dịch vụ lữ hành Saigontourist và Tân Hồng thường đón khách của các tàu từ Bắc Mỹ, Tây Âu, Đông Nam Á. Kế đó là nhóm sáu công ty du lịch ở Quảng Ninh cùng chia sẻ lượng khách Trung Quốc tham quan miền Bắc theo hai tuyến tàu Bắc Hải - Hạ Long và Hải Nam - Hạ Long. Ngoài ra, một số doanh nghiệp ở miền Trung nhận lại khách từ Saigontourist hoặc Tân Hồng khi tàu du lịch ghé các cảng Quy Nhơn, Chân Mây, Cửa Việt (Quảng Trị).
Lượng khách tàu biển giảm từ năm 2008 đến nay chủ yếu là khách Trung Quốc tham quan phía Bắc (từ 150 ngàn năm 2007 giảm còn 70 ngàn năm 2008). Theo ngành du lịch Quảng Ninh, nguyên nhân là do suy thoái kinh tế và tàu chạy tuyến Hải Nam - Hạ Long đã bị hư từ lâu, đến giờ vẫn chưa sửa xong. Một doanh nghiệp vàng bạc đá quý của tỉnh cho biết sự sụt giảm khách tàu biển Trung Quốc làm giảm doanh thu của nhiều doanh nghiệp ở đây vì khách Trung Quốc mua sắm khá mạnh tay, đặc biệt là nữ trang và đặc sản địa phương. Tuy nhiên, những nỗ lực thu hút khách của ngành du lịch Quảng Ninh như làm mới sản phẩm, mở rộng thị trường xem ra còn khá chậm chạp.
Một địa phương khác là Bình Định suốt năm 2008 không đón được chuyến tàu nào dù những năm trước, cảng Quy Nhơn có khách khá đều đặn suốt mùa cao điểm. Ngoài những nguyên nhân chung của du lịch Việt Nam, hoạt động quảng bá ra nước ngoài của tỉnh quá hạn chế. Một du khách người Đức đi trên tàu ASTOR đến Bình Định vào tháng 3/2007 nhận xét: “Các tháp Chàm ở Bình Định rất ấn tượng. Làng quê Bình Định rất yên bình và thơ mộng. Người dân nông thôn nơi đây rất dễ gần và hiếu khách nhưng đường đến các tháp chưa được tốt. Còn thiếu các mặt hàng lưu niệm để chúng tôi có thể mua về làm quà cho người thân. Điều đáng phàn nàn là nhà vệ sinh ở các điểm tham quan đều rất kém” (báo Bình Định ngày 11-10-2008).
Một địa phương mạnh về tàu biển như Đà Nẵng cũng dự đoán trong quý I năm nay lượng khách tàu biển sẽ giảm khoảng 30% so với cùng kỳ năm ngoái. Nhìn chung, các cảng ở miền Trung đang mất khách tàu biển vì cơ sở hạ tầng yếu, sản phẩm du lịch nghèo nàn, tổ chức dịch vụ hậu cần chưa chuyên nghiệp. Tiềm năng hầu như bỏ ngỏ.
![]()
Đón du khách tàu biển tại cảng Sài Gòn - Ảnh: Saigontourist
Trong khi đó, những năm qua lượng khách tàu biển của Saigontourist liên tục tăng mạnh. Nếu năm 2006 công ty này chỉ mới có 18 ngàn khách, chiếm 0,08% lượng du khách tàu biển đến Việt Nam thì ở năm 2008, con số này đã 120 ngàn, chiếm gần 80% lượng khách tàu biển! Điều này chứng tỏ tiềm năng của Việt Nam hầu như vẫn chưa khai thác được bao nhiêu và nếu có những nỗ lực quảng bá thu hút khách đúng cách thì lập tức đem lại hiệu quả.
Vấn đề nằm ở khả năng tiếp cận thị trường và chất lượng dịch vụ. Để tiếp cận được thị trường được xem là cao cấp này phải thực hiện hàng loạt công việc như tìm điểm đến, tìm sản phẩm du lịch phù hợp, quảng bá, cung cấp dịch vụ tổ chức, hậu cần, thiết lập các mối quan hệ quốc tế…
Ở các nước Thái Lan, Malaysia, Singapore, cơ quan du lịch nhà nước từ lâu đã tạo được chiến lược phát triển ngành du lịch tàu biển một cách cụ thể và chi tiết, ngoài ra còn hỗ trợ đắc lực cho doanh nghiệp trong hoạt động quảng bá và tạo quan hệ với đối tác nước ngoài. Singapore có cả quỹ phát triển du lịch tàu biển để khuyến khích các hãng tàu quốc tế hợp tác với doanh nghiệp nước này phát triển thị trường. Còn ở Việt Nam, doanh nghiệp phải tự thân vận động trong tất cả công đoạn. Vì vậy, sau mười năm kể từ thời điểm đón chuyến tàu biển du lịch đầu tiên, trong số 600 công ty lữ hành quốc tế Việt Nam, hiện chỉ có vài doanh nghiệp đủ khả năng tham gia mảng du lịch này.
Tổng cục Du lịch đã đặt ra mục tiêu là đến năm 2015, Việt Nam phải đón được một triệu khách tàu biển nhưng đến nay, nỗ lực của Tổng cục chỉ mới ở mức cùng doanh nghiệp tham gia vài hội chợ tàu biển quốc tế năm 2008. Những tác động của Tổng cục đến các chính sách đơn giản hóa thủ tục đối với khách tàu biển cũng chưa đáng kể. Chẳng hạn, theo quy định hiện nay, khách quốc tế đến Việt Nam bằng tàu biển với thời gian lưu trú dưới năm ngày sẽ được cấp giấy phép tham quan với lệ phí 5 USD/khách, còn trên năm ngày phải trả lệ phí 25 USD/khách.
Nếu tàu muốn ghé vào Quảng Trị, Huế, Quy Nhơn, Nha Trang, lộ trình thường phải hơn năm ngày. Đây là một trong những lý do làm các cảng nhỏ ở miền Trung bị mất cơ hội đón khách du lịch. Vụ Lữ hành đã kiến nghị tăng năm ngày lên chín ngày từ cuối năm 2007 nhưng vẫn chưa được giải quyết.
Năm 2005 có 700 ngàn lượt du khách tàu biển đi qua vùng châu Á - Thái Bình Dương, trong số đó khoảng 30% ghé vào Việt Nam. Đến năm 2008, lượng du khách tàu biển đã tăng gấp rưỡi nhưng Việt Nam chỉ còn đón được khoảng 15%. Dù có lợi thế về mặt tự nhiên nhưng thiếu chiến lược, thiếu hoạt động quảng bá cũng như cơ sở hạ tầng chưa phù hợp, Việt Nam cứ mãi nhường mảng du lịch lợi nhuận cao này cho các nước láng giềng.
Theo Doanh nhân Sài gòn cuối tuần/Tuổi trẻ online
n/a
|
Số lượt xem : 2618